090 349 28 66
·
mvlawfirm.vn@gmail.com
·
Mon - Fri 09:00-17:00
090 349 28 66
·
mvlawfirm.vn@gmail.com
·
Mon - Fri 09:00-17:00

Quyền sở hữu trí tuệ không đơn giản là một quyền dân sự nhưng vẫn được coi là một loại tài sản vô hình có giá trị kinh tế lớn trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hiện nay. Khác với tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ được coi là tài sản đặc biệt mang những đặc điểm như tính sáng tạo, tính vật. Việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp có thể tái tạo nhiều năng lượng như tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp, tạo ra giá trị kinh tế lớn, đi kèm với những cơ hội khai thác thác thác thác, cũng sử dụng vào mục đích tài sản thiết lập ra nhiều ẩn ro pháp lý cao hơn so với việc góp vốn bằng các loại tài sản tài sản tài sản sản xuất khác. Những tủ có thể sản xuất những sản phẩm khó khăn trong công việc định giá, xác lập quyền sở hữu, cũng như có chế độ giám sát và xử lý khi có tranh chấp phát sinh.

1. Đặc quyền của vốn góp thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

Thứ tư , object của góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là một loại tài sản vô hình. Do đó, quyền SHTT không giống như các loại tài sản tài sản hình sử dụng để góp vốn, quyền sở hữu loại tài sản này không mang tính tuyệt đối. Bên cạnh chủ sở hữu quyền SHTT, chủ sở hữu có thể được chủ sở hữu cho phép sử dụng quyền SHTT, thì các tổ chức, cá nhân khác trong một số trường hợp hợp pháp vẫn được phép sử dụng mà không cần phải có đồng ý của chủ sở hữu loại tài sản này. Vì vậy, đối với loại tài sản này, chủ sở hữu chỉ có quyền sử dụng hữu về mặt pháp lý mà không thể sử dụng hữu hữu về mặt thực tế. Ở đó, nếu như sử dụng các loại tài sản khác để góp vốn thì tài sản có giá trị thường sẽ giảm dần theo thời gian do sự hao mòn về đặc tính vật lý của đối tượng. Tuy nhiên, đối với quyền SHTT được sử dụng để góp vốn, thì đây là loại tài sản không bị mài mòn theo thời gian sử dụng mà giá trị tăng hay giảm của loại tài sản này phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. 

Thứ hai, chủ thể sử dụng quyền SHTT để góp vốn phải là chủ sở hữu quyền SHTT. Tuy nhiên, nếu đối với các loại tài sản khác, thông thường chỉ có một chủ sở hữu thì đối tượng của quyền SHTT có thể có rất nhiều chủ sở hữu. Người nắm giữ một số tài sản sẽ được xác định là chủ sở hữu quyền SHTT. Ví dụ, đối tác cùng một tác phẩm nhưng sẽ có chủ sở hữu các quyền tài sản như sao chép sản phẩm, quyền biểu diễn sản phẩm trước công chúng, quyền làm tác sản phẩm phái sinh, quyền truyền đạt sản phẩm đến công ty. Chỉ cần sở hữu một trong các quyền này thì chủ sở hữu có thể được xác định là chủ sở hữu quyền SHTT. Bên cạnh đó, đối diện cùng một quyền SHTT nhưng ở các phạm vi không gian khác nhau thì có thể có nhiều chủ sở hữu khác nhau. 

Thứ ba, góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT bị giới hạn phạm vi về thời gian, không góp vốn. Sở dĩ như vậy là vì quyền SHTT bị giới hạn về không gian và thời gian bảo hộ. Đối với hầu hết các tài sản hình thành, pháp luật không quy định giới hạn về thời hạn sở hữu đối với tài sản đó, nhưng tài sản thuộc quyền SHTT thì pháp luật chỉ ghi nhận quyền sở hữu trong một thời gian nhất định. Bên bờ giới hạn về thời gian, góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT vẫn bị giới hạn bởi phạm vi không gian. Quyền SHTT được ghi nhận và bảo hộ trong phạm vi một quốc gia hoặc một số quốc gia. 

Thứ tư, biểu tượng quyền SHTT được sử dụng để góp vốn thành lập công ty được giới hạn bởi hoạt động và lĩnh vực kinh doanh của công ty. Khi nhận vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, các công ty thường hướng tới việc khai thác giá trị của quyền SHTT góp vốn. Mặc dù hầu hết các thủ đô của SHTT đều có thể khai thác thác thương mại, tuy nhiên, khi nhận vốn, các chủ thể thường chỉ lựa chọn chấp nhận các đối tượng SHTT phù hợp với hoạt động kinh doanh của công ty. Điều này sẽ giúp công ty nhận được mức giảm thiểu xác định chi phí tốt nhất để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh cho công ty ở giai đoạn đầu thành lập. 

Thứ năm, góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT luôn được giới hạn về tỷ lệ vốn SHTT trong tổng số vốn góp. Vốn SHTT là một phần quan trọng của vốn công ty, nhưng tài sản này chỉ có thể mang lại hiệu quả huy động nếu nó được phân chia hợp lý với hình ảnh tài sản. Mặc dù góp tiền thành lập công ty bằng quyền SHTT là yêu cầu tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, tuy nhiên, việc chấp nhận vốn góp bằng loại tài sản này tiềm tàng nhiều rủi ro về mặt pháp lý. Do đó, để đảm bảo an toàn vốn cũng như bảo vệ lợi ích của các khoản nợ chủ của công ty, một số quốc gia hiện nay đã quy định về giới hạn chế độ tỷ lệ vốn vốn bằng quyền SHTT, thì thực tế cho thấy rằng, không có công ty nào chấp nhận góp vốn 100% bằng quyền SHTT.

2. Rủi ro pháp lý đấu tranh góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ 

Một điều rủi ro về tính hợp pháp của quyền sở hữu trí tuệ vốn

Về nguyên tắc, để sử dụng quyền SHTT góp vốn tài trợ phải là chủ sở hữu hợp pháp của quyền SHTT, nếu không, việc góp vốn sẽ không được pháp luật công nhận. Đối với các tài sản sản xuất hình, điều này gần như không thể xảy ra, nhưng đối với quyền SHTT, do tính chất vô hình của loại tài sản này mà việc một chủ thể không phải là chủ sở hữu hợp pháp quyền SHTT vẫn có thể sử dụng quyền này để tặng quà, và điều này rất có thể xảy ra trên thực tế. Trường hợp này thường xảy ra đối với các đối tượng mà quyền SHTT không phải xác lập quyền trên cơ sở thủ tục tiếp tục đăng ký bảo hộ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Một số trường hợp sau góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ sẽ không hợp pháp: (i) Chủ thể sử dụng quyền SHTT góp vốn là chủ sở hữu có thể được cấp quyền SHTT một cách bất hợp pháp; (ii) Người sáng tạo ra đối tượng sở hữu trí tuệ trên cơ sở nhiệm vụ được giao hoặc đồng ý sử dụng quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng mà mình tạo ra để góp vốn; (iii) Một hoặc một số chủ sở hữu sử dụng quyền sở hữu trí tuệ góp vốn để thành lập công ty nhưng không thể nhận được đồng ý của tất cả các chủ sở hữu; (iv) Chủ nhà có thể sử dụng quyền SHTT góp chỉ có quyền sử dụng quyền SHTT mà không có quyền sở hữu.

Ngoài ra các trường hợp nói trên, cá biệt hơn có thể xảy ra trường hợp hợp, đó là tại thời điểm góp vốn, chủ thể góp vốn vẫn là chủ sở hữu hợp pháp của quyền SHTT, nhưng sau đó, văn bản bảo hộ bị bỏ hiệu lực. Đối với SHTT quyền, văn bản bảo hộ được xem là bằng chứng xác thực hợp pháp của chủ sở hữu quyền SHTT. Tuy nhiên, ngay cả khi một nhà cung cấp đã được cấp văn bản bảo hộ để chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với đối tượng SHTT thì văn bản bảo đảm vẫn có thể được bỏ hiệu lực. Điều nay đồng nghĩa với việc, độc quyền SHTT cũng sẽ mất đi. Khi đó, hoặc là đối tượng đó không còn tiếp tục được bảo vệ và bất kỳ chủ thể nào đều có quyền sử dụng; hoặc là đối tượng đó vẫn tiếp tục được bảo hộ nhưng quyền sở hữu không thuộc về chủ sở hữu trước đó. Cả hai trường hợp vốn đều bị ảnh hưởng. 

Hai là, rủi ro về giới hạn quyền sở hữu trí tuệ

Ngay cả khi không có tranh chấp về quyền SHTT xảy ra thì góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT vẫn có thể có các giải pháp rủi ro khác. Quyền SHTT luôn bị giới hạn bởi phạm vi không gian và thời gian. Quyền này hầu như không được bảo vệ vô thời hạn, cũng như không phải trong tất cả các vùng lãnh thổ. Vì vậy, rủi ro sẽ xảy ra nếu quyền SHTT vốn đã hết hạn hoặc sắp hết thời hạn quản lý hoặc không nằm trong phạm vi lãnh thổ được bảo vệ. Quyền SHTT chỉ bảo hộ độc quyền cho các chủ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn bảo hộ, độc quyền SHTT sẽ không còn và bất kỳ chủ sở hữu nào đều có thể sử dụng quyền SHTT. Bên cạnh đó, quyền SHTT cũng được chỉ bảo vệ trong phạm vi không gian nhất. Ngoài phạm vi đó, chủ nhà không thể hỏi bất cứ điều gì bảo vệ quyền SHTT.

Ba là rủi ro về chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ vốn

Chuyển nhượng quyền SHTT để nhận vốn là nhiệm vụ của chủ thể góp vốn. Tuy nhiên việc chuyển nhượng quyền SHTT góp vốn phải bảo đảm về mặt hình thức đối với chuyển nhượng quyền SHTT nói chung. Việc chuyển nhượng phải bằng văn bản và một số trường hợp hợp, phải thực hiện đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu không có quy định về SHTT chuyển quyền hình thức thì việc chuyển nhượng quyền SHTT không có giải pháp giá trị. Điều này đồng nghĩa với nhiệm vụ thanh toán của chủ thể góp vốn đã không được thực hiện và nhận vốn sẽ không xác thực cách chủ sở hữu hợp pháp phản đối ủy quyền SHTT vốn.

Bốn điều rủi ro về việc định giá quyền sở hữu trí tuệ

Xuất bản bản quyền chất độc quyền của SHTT và không có giá trị cao nhất nên giá trị của SHTT cần được đánh giá trong quá trình góp vốn. Tuy nhiên, để tính toán được quyền giá trị SHTT một cách chính xác là điều không hề dễ dàng. Trong quá trình SHTT định giá, giá trị thường được đánh giá quá cao. Điều này sẽ tạo ra cho các thành viên, cổ động sáng lập đối mặt với các biện pháp tránh trách nhiệm liên quan đến định giá sai tài sản góp vốn.

3. pháp phòng rủi ro giải quyết vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT

Như vậy, việc góp tiền và nhận tiền góp thành lập công ty bằng quyền SHTT có thể gặp phải những rủi ro nhất. Trên thực tế, ngày càng có nhiều tranh chấp về quyền SHTT, nếu điều này xảy ra, hoạt động của bên nhận vốn bằng quyền SHTT sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, để ngăn chặn các rủi ro có thể xảy ra khi góp vốn và nhận vốn góp thành lập công ty bằng quyền SHTT, các bên cần lưu ý các vấn đề sau:

Thứ ba, cần xem xét kỹ năng tư vấn cách chủ vốn đối với quyền sở hữu trí tuệ vốn. Điều này có thể được thực hiện bằng cách xem lại văn bản đã được cung cấp cho các chủ thể đó. Một số trường hợp hợp lý có thể phải xem xét lại nguyên lý hợp lý để xác định đúng các chủ thể tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ. Đối với các đối tượng không bắt buộc phải đăng ký bảo hộ quyền SHTT tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như phần mềm máy tính, bản quyền khác thì có thể không có giấy chứng nhận quyền do cơ quan có thẩm quyền cấp. Điều này sẽ gây trở ngại cho việc xác định tính hợp lý của quyền. Vì vậy, đối với trường hợp này, bên nhận vốn góp nên yêu cầu các thủ thuật vốn phải thực hiện thủ tục đăng ký và cung cấp giấy nhận giấy chứng nhận đăng ký quyền giả.

Thứ hai, để tránh trường hợp quyền SHTT góp vốn bị mất hiệu lực văn bằng bảo hộ, bên nhận lời khuyên nên xem xét cụ thể các tài liệu, giấy tờ liên quan đến đối tượng của quyền SHTT góp vốn cũng như năm thu thập thêm thông tin về các đối tượng tương tự, có liên quan đến đối tượng quyền của SHTT góp vốn để kiểm tra tính hợp lệ của văn bản bảo hộ đã cấp cho đối tượng SHTT.

Thứ ba, xác định đúng thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời hạn bảo hộ cũng như phạm vi không gian mà quyền SHTT được bảo hộ. Từ đó, cụ có thể phạm vi thời gian và không góp vốn bằng quyền SHTT. Việc xác định thời hạn bảo hộ không gặp nhiều khó khăn thông thường, đối với các đối tượng đã được cung cấp văn bản bằng bảo hộ thì hạn chế bảo mật được xác định trong bằng bảo hộ văn bản.

Thứ tư, hãy biết các quy định của pháp luật về hình thức chuyển nhượng quyền SHTT cho từng đối tượng SHTT để đảm bảo chuyển quà tặng thủ đúng các quy định của pháp luật. Đối với chuyển nhượng quyền SHTT góp vốn, ngoài việc góp vốn các quy định luật doanh nghiệp nói chung về chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn nói cũng phải góp ý theo các quy định Luật Sở trí tuệ về chuyển nhượng quyền SHTT.

Thứ tư, để kích hoạt vốn SHTT định giá, cần phải có một số tham số của tổ chức được xác định giá để tạo cơ sở mang lại lợi ích cho các công cụ quản lý vốn thành lập. Các công cụ thủ công có thể được chấp nhận về giá nhưng không thể cao hơn mức giá mà tổ chức được xác định rõ ràng.

Bình luận

Zalo Call
Zalo Call