Trong các vụ án đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số đề, nhiều người thắc mắc: có cần thiết phải xác định cụ thể từng con số được ghi hay không? Câu hỏi này tưởng như chỉ mang tính kỹ thuật điều tra, nhưng thực chất lại có ảnh hưởng quan trọng đến việc buộc tội, lượng hình và xử lý đúng người, đúng tội. Vậy pháp luật hiện hành quy định như thế nào? Chủ đề ghi số lô số đề bị xử phạt ra sao? Bài viết sau của Công ty Luật MV sẽ phân tích đầy đủ dưới góc độ pháp lý hiện hành.
1- Xác định số lô, số đề trong vụ án đánh bạc: Có cần thiết không?
a, Căn cứ pháp lý và hướng dẫn chính thức
Theo Công văn số 2160/VKSTC-V14 ngày 19/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), mục 10 Phần I có nêu rõ:
“Việc xác định cụ thể số lô, số đề đã ghi là cơ sở để xác định tổng số tiền dùng để đánh bạc của người chơi đề, chủ đề; có ý nghĩa nhằm làm rõ ý thức, mục đích, hành vi của người chơi đề cũng như tình tiết của vụ án; là cơ sở để đánh giá chứng cứ.”
Công văn này khẳng định: Việc xác định cụ thể từng số lô, số đề là cần thiết và có giá trị pháp lý quan trọng trong việc buộc tội người phạm tội đánh bạc.
b, Ý nghĩa của việc xác định cụ thể số lô, số đề
(i) Làm rõ ý thức chủ quan của người phạm tội: Người ghi lô, đề hay người chơi đều có mục đích thu lợi bất chính qua từng con số cụ thể. Việc xác định rõ giúp làm sáng tỏ yếu tố lỗi cố ý.
(ii) Xác định tổng số tiền dùng để đánh bạc: Đây là căn cứ phân biệt tội phạm ở khung cơ bản hay khung tăng nặng theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015.
(iii) Đánh giá chứng cứ và xác định vai trò từng người: Người chủ ghi đề, người nhận số, người chơi… đều có vị trí khác nhau trong đường dây, nên cần chi tiết số cụ thể để định lượng trách nhiệm hình sự.
2- Tội đánh bạc và mức xử lý theo quy định hiện hành
a, Căn cứ xử lý hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015
Theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), tội đánh bạc được quy định với 2 khung hình phạt chính:
(i) Khung cơ bản – Khoản 1:
Người đánh bạc trái phép được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án chưa được xóa án tích, thì bị:
-
Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng;
-
Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; hoặc
-
Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
(ii) Khung tăng nặng – Khoản 2:
Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
-
Có tính chất chuyên nghiệp;
-
Số tiền hoặc hiện vật đánh bạc từ 50 triệu đồng trở lên;
-
Sử dụng Internet, mạng máy tính, phương tiện điện tử để đánh bạc;
-
Tái phạm nguy hiểm.
b, Đối tượng bị xử lý trong vụ đánh bạc bằng số lô, đề
Trong đường dây lô đề, thường có các đối tượng sau:
-
Người chơi đề (người đặt số);
-
Người ghi đề (thu thập số, trung gian);
-
Người chủ đề (tổ chức, điều hành, thu tiền);
-
Người cung cấp bảng đề, in ấn tài liệu phục vụ đánh bạc.
Tùy vai trò và số tiền cụ thể, người vi phạm có thể bị xử lý ở mức khác nhau. Chủ đề có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngay cả khi không trực tiếp ghi số, nhưng tổ chức và thu lợi.
3- Xử phạt hành chính với người làm chủ ghi số lô, đề
a, Căn cứ xử phạt hành chính
Theo Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi tổ chức đánh lô, đề trái phép bị xử phạt như sau:
Khoản 5: “Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
a) Làm chủ lô, đề;
b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề;
c) Tổ chức mạng lưới bán số;
d) Tổ chức cá cược dưới các hình thức khác để đánh bạc, ăn tiền.”
Ngoài phạt tiền, còn có các hình thức xử phạt bổ sung:
-
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm;
-
Trục xuất nếu là người nước ngoài;
-
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp.
Lưu ý: Nếu tổ chức đứng tên là người vi phạm, mức phạt gấp đôi mức phạt với cá nhân theo khoản 2 Điều 4 Nghị định này.
b, Phân biệt với xử lý hình sự
Việc xác định hành vi bị xử lý hành chính hay hình sự dựa vào:
-
Tổng số tiền tổ chức đánh bạc (trên 5 triệu đồng – xử lý hình sự);
-
Tính chất tổ chức và tái phạm;
-
Các yếu tố cấu thành tội phạm (lỗi, mục đích thu lợi…).
4- Thời hiệu xử phạt hành chính trong hành vi ghi số đề
a, Thời hiệu theo quy định
Khoản 1 Điều 5 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định:
“Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội là 01 năm.”
Nghĩa là: nếu sau 01 năm kể từ khi hành vi vi phạm kết thúc mà không bị xử lý, thì không thể ra quyết định xử phạt hành chính nữa.
b, Thời điểm tính thời hiệu
-
Nếu hành vi đã kết thúc: Tính từ thời điểm chấm dứt hành vi.
-
Nếu hành vi đang diễn ra: Tính từ thời điểm bị phát hiện.
-
Nếu biên bản vi phạm do đơn vị khác lập: Tính đến thời điểm ra quyết định xử phạt.
5- Một số vấn đề thực tiễn đặt ra
a, Trường hợp không xác định được cụ thể từng số đề
Trong nhiều vụ án, cơ quan điều tra chỉ thu giữ được bảng ghi, tin nhắn, lời khai mà không xác định được đầy đủ số lô đề cụ thể. Trong trường hợp đó, nếu có căn cứ rõ ràng về tổng số tiền và hành vi phạm tội, thì vẫn có thể xử lý hình sự, nhưng chứng cứ phải đủ sức thuyết phục.
b, Lập luận gỡ tội: Không xác định cụ thể, không đủ căn cứ?
Luật sư có thể lập luận: nếu không xác định rõ số lô đề và số tiền, thì không có căn cứ xác định người phạm tội đánh bạc theo đúng định lượng tại Điều 321. Tuy nhiên, cách lập luận này chỉ có giá trị nếu các chứng cứ gián tiếp cũng không chứng minh được tổng số tiền đánh bạc.
6- Kết luận
Từ những phân tích trên có thể thấy, việc xác định cụ thể số lô số đề trong các vụ án đánh bạc là cần thiết, mang ý nghĩa pháp lý quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến việc buộc tội. Nếu số tiền từ hành vi đánh bạc vượt ngưỡng theo luật, người vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp chưa đủ yếu tố hình sự, cá nhân làm chủ ghi số lô số đề vẫn bị xử phạt hành chính khá nặng theo quy định tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Để được tư vấn cụ thể hơn về hành vi đánh bạc dưới mọi hình thức, bạn có thể liên hệ Công ty Luật MV – đơn vị có nhiều kinh nghiệm trong giải quyết các vụ việc hình sự, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến tệ nạn xã hội và tổ chức đường dây đánh bạc.