Trong thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ, quyền sở hữu trí tuệ đang dần trở thành một tài sản có giá trị không chỉ với cá nhân sáng tạo mà còn với doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Để khai thác thác tối đa giá trị từ các chế độ sáng tạo, công nghệ hay tác phẩm nghệ thuật, nhiều chủ thể đã lựa chọn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc đăng ký sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc bảo vệ và duy trì quyền sở hữu trí tuệ không hề đơn giản. Nó thường đòi hỏi chi phí rảnh, thời gian dài và nhẫn sự kiện – điều mà chỉ những công ty quy mô vừa và mới có khả năng đáp ứng. Với các doanh nghiệp nhỏ hoặc cá nhân sáng tạo độc lập, đây có thể là một công thức lớn nhất để hạn chế về nguồn lực tài chính
Đứng trước khó khăn đó, một hướng đi mới đang tăng dần quan tâm: chứng xác hóa quyền sở hữu trí tuệ. Thay vì cố gắng duy trì bảo hộ, chủ sở hữu có thể sử dụng chính tài sản trí tuệ của mình để huy động vốn – bằng cách biến chúng thành các loại tài sản có thể giao dịch trên thị trường tài chính. Nói cách khác, quyền sở hữu trí tuệ đây không chỉ là một “tài sản chết”, mà có thể trở thành công cụ để gọi vốn, cung cấp hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Tại nhiều quốc gia – trong đó có Việt Nam – chứng khoán hóa quyền sở hữu trí tuệ đang được coi là một phương thức huy động vốn tiềm năng. Cơ chế này không chỉ mang lại lợi ích tài chính cho chủ sở hữu mà còn mở ra cơ hội đầu tư mới cho những người quan tâm đến lĩnh vực sáng tạo, đổi mới.
Ở Việt Nam, xu hướng phát triển thị trường chứng khoán sở hữu trí tuệ đang dần thu hút sự quan tâm của cả cộng đồng doanh nghiệp trong nhà đầu tư. Điều này hứa hẹn tạo ra một dòng vốn mới, hỗ trợ các doanh nghiệp có thêm nguồn lực phát triển, đồng thời mở rộng cơ hội cho các dự án sáng tạo được tiếp cận nguồn tài chính chính. Tuy nhiên, đi kèm với các tiềm năng là không có thiểu số. Việc xác định giá trị thực tế của tài sản trí tuệ vẫn còn nhiều bất chấp, trong khi có thể xảy ra vi phạm quyền hoặc tranh chấp pháp lý liên quan đến tính độc quyền của tài sản vẫn luôn hiện hữu – cả ở trong nước. Nếu không có cơ chế kiểm soát và xác định rõ ràng, chứng khoán tài sản trí tuệ trí tuệ có thể trở thành con dao hai mảnh.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá kỹ năng lưỡng về chứng minh quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam là điều cần thiết. Không chỉ để nhận biết rõ hơn về những cơ hội và rủi ro mà còn nhắm đến việc tạo ra các giải pháp phù hợp để giúp xây dựng một thị trường minh bạch, hiệu quả và vững chắc cho loại hình tài sản đặc biệt này.
Góc nhìn về chứng khoán hóa quyền sở hữu trí tuệ
Để hiểu về chứng mã hóa quyền sở hữu trí tuệ cần phải làm rõ hai khái niệm về Tài sản – Bảo mật được hỗ trợ và IP – Chứng khoán hóa được hỗ trợ.
Chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản (ABS)
Tài sản – Bảo mật được đảm bảo (ABS) là một loại công cụ tài chính có giá trị được phát hành bởi các tập đoàn tài chính hoặc các tổ chức tài chính chính để huy động vốn từ các loại tài sản thế chấp. ABS được tạo ra bằng cách tổng hợp nhiều loại tài sản được chấp nhận và chứng khoán hóa. Các loại tài sản được gộp vào có thể kể đến như các tài khoản vay thế chấp, tài khoản vay ô tô, tài khoản vay học phí hoặc các tài sản thế chấp khác. Những tài sản này được chuyển giao (trên giấy tờ) thành một sản phẩm tài chính chính và sau đó phát hành nó trên thị trường để bán cho các nhà tư vấn nhận thức có khả năng phát triển tài sản này cũng như một nhóm các nhà tư vấn cơ sở nhận được giá trị gia tăng của sản phẩm chính này.
Về cơ bản, ABS là một loại chứng khoán tài sản chính được đảm bảo bằng tài sản thực, thường là các tài sản không động sản (như hợp đồng cho vay hay tài sản vật chất) hoặc các tài sản tài sản chính (như hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền lựa chọn, hoặc các loại nợ có thế chấp.). ABS thường được tạo ra thông qua quy trình gọi bảo mật (chứng khoán). Trong quá trình này, các tài sản được chuyển đổi thành chứng khoán mà người đầu tiên có thể mua. Tài sản này sau đó sẽ được đảm bảo (tài sản thế chấp) đằng sau các chứng khoán ABS. Khi người mua ABS, họ đang đầu tư vào một phần nhỏ của số tiền mà người vay sẽ trả, có giá trị như lãi và gốc.
Một số nhà tư vấn lừa đảo hiểu rằng có thể không quan tâm đến tiềm năng phát triển phát triển của ABS mà tập trung chủ yếu vào tài sản đảm bảo đằng sau, mong muốn sở hữu chúng khi doanh nghiệp không thể trả gốc và lãi đến hạn. ABS thường được sử dụng để huy động vốn. Các tổ chức tài chính chính (như ngân hàng hoặc công ty tài chính) thường tạo ra ABS bằng cách chuyển giao các tài sản mà họ bảo quản trong kho chứng khoán của mình. Các nhà tư vấn sau đó mua chứng khoán này, mang lại nguồn gốc ngân sách cho ngân hàng hoặc công ty tài chính ban đầu và chuyển trách nhiệm về việc thu hồi tiền lãi và gốc từ các tài khoản vay này cho người mua chứng khoán ABS. ABS mang lại lợi ích cho cả hai bên: người mua chứng khoán nhận được lợi nhuận từ việc nhận các khoản thanh toán từ các khoản vay, khi người bán ABS có thể huy động vốn một cách hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ các khoản vay không trả đủ nợ.
Chứng khoán hóa được hỗ trợ bởi IP
Chứng khoán hóa được hỗ trợ bởi IP là một quá trình tạo ra chứng khoán tài chính dựa trên giá trị của quyền sở hữu trí tuệ (Sở hữu trí tuệ – IP). IP – chứng khoán hóa được hỗ trợ thường liên quan đến việc chuyển đổi các quyền lợi từ các tài sản trí tuệ, như bản quyền, nhãn hiệu, hoặc bằng sáng chế, thành bằng chứng mà nhà đầu tư có thể mua.
Trong quá trình này, chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ chuyển quyền sử dụng tài sản này cho một tài sản chính của tổ chức. Tổ chức tài chính sau đó tạo ra các chứng khoán dựa trên giá trị kỳ vọng từ việc sử dụng tài sản trí tuệ này. Các nhà tư vấn sau đó mua các chứng khoán này, cung cấp nguồn vốn cho chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Đối với chủ sở hữu tài sản trí tuệ, dân tộc qua phương thức chứng khoán hoá quyền sở hữu trí tuệ này, họ có thể huy động vốn mà không cần bán quyền sở hữu trí tuệ hoàn toàn. Thay vào đó, họ chỉ chuyển nhượng một phần lợi ích khi sử dụng tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, đây cũng là một nước đi lừa đảo nếu tổ chức tài chính phát hành chính loại chứng khoán này không thể thanh toán đầy đủ nghĩa vụ trả nợ góc và lãi đến hạn của mình. Ví dụ như trường hợp hợp phát hành trái phiếu của doanh nghiệp khi quá hạn thanh toán gốc và lãi, tài sản trí tuệ sẽ được thanh lý để trả nợ cho nhà đầu tư.
Đối với nhà tư vấn, họ có cơ hội đầu tư vào các loại tài sản trí tuệ trí tuệ có giá trị cao bằng cách trực tiếp thông qua việc mua các chứng khoán được hỗ trợ bằng IP. Lợi nhuận của họ phụ thuộc vào tài sản trí tuệ sinh lời từ các hoạt động như bán sản phẩm hoặc cấp phép sử dụng tài sản trí tuệ trí tuệ, hoặc như phân tích bên trên là mong muốn sở hữu tài sản trí tuệ được đảm bảo chắc chắn.
Chứng minh tính hóa quyền sở hữu trí tuệ qua mô hình trái phiếu
Là một dạng của ABS, chứng khoán hóa được hỗ trợ bởi IP, chứng khoán hóa quyền sở hữu trí tuệ có thể được thực hiện qua mô hình trái phiếu. Tại Việt Nam, phương thức này chưa được phổ biến rộng rãi do thị trường chuyển nhượng ít tài sản trí tuệ vẫn nhận được sự chú ý so với các loại tài sản quen thuộc như bất động sản, vàng, cổ phiếu….Tuy nhiên, tại các quốc gia phát triển phát triển như Mỹ, Châu Âu, việc chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ đã được phổ biến khắp nơi, đặc biệt trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế như một phương thức huy động thay thế thế.
Khi các phương thức huy động vốn khác được siết chặt hoặc hạn chế, các doanh nghiệp sở hữu tài sản trí tuệ đã tìm được các phương thức khác là thông qua chứng minh quyền sở hữu trí tuệ thông qua hình thức phát hành trái phiếu. Cụ thể, để chứng khoán hóa IP sẽ có ba bên liên quan chủ yếu, bao gồm chủ sở hữu tài sản trí tuệ trí tuệ, một công ty chuyên nghiệp về chứng khoán hóa SPV (Phương tiện chuyên dụng), tập hợp các nhà tư vấn mong muốn đầu tư vào khả năng sinh lời của tài sản trí tuệ.
Để huy động vốn, chủ sở hữu tài sản trí tuệ chuyển nhượng/cấp phép/tạm thời chuyển giao quyền tài sản trí tuệ cho SPV. SPV khi nhận được quyền tiếp cận tài sản trí tuệ sẽ chi trả cho chủ sở hữu tài sản trí tuệ một khoản tiền thuận lợi giữa 2 bên. SPV thanh toán bằng nguồn tiền họ đã có từ trước hoặc dựa trên giao dịch giữa họ với các nhà đầu tư trái phiếu thông qua hình thức phát hành phiếu bầu cho các nhà đầu tư.
Nhà tư vấn mua trái phiếu được phát hành dựa trên niềm tin rằng SPV sẽ có khả năng phát triển mạnh từ việc sở hữu tài sản trí tuệ trí tuệ và có khả năng trả lại cho họ gốc và lãi khi đến hạn trái phiếu. Trong một số trường hợp, chủ sở hữu tài sản trí tuệ có thể phải chuyển nhượng quyền khai thác tài sản trí tuệ cho SPV để họ có thể tận dụng chúng trong hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp thỏa thuận giữa hai thời hạn thì sau một giai đoạn nhất định theo thỏa thuận giữa các bên, chủ sở hữu tài sản trí tuệ sẽ lấy lại quyền đối với tài sản trí tuệ trí tuệ ban đầu.