“Tụi mình sống với nhau 6 năm, không đăng ký kết hôn. Tài sản nào cũng làm hai đứa con góp công xây dựng, nhưng giấy tờ đều đứng tên người ta. Đến lúc chia tay, mình hỏi về phần của mình thì nhận lại câu: ‘Em đâu có quyền gì đâu.”
Đây không phải là chuyện lạ. Ngày càng nhiều cặp đôi lựa chọn sống thử, sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn – vì nghĩ rằng “chuyện giấy tờ không quan trọng, tình cảm mới là chính.” Nhưng đến khi tan vỡ, rất nhiều người mới choáng váng nhận ra: pháp luật không dựa vào cảm xúc để phân xử, những gì được bảo vệ là những gì có cơ sở rõ ràng.
Vậy nếu chung sống mà không đăng ký kết hôn thì khi chia tay có được chia tài sản không? Pháp luật nhìn nhận những mối quan hệ như vậy ra sao? Và làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp cả hai lời góp ý của nhưng chỉ một người đứng tên tài sản? Hãy cùng MV Luật tìm hiểu nhé!
1. Pháp luật gọi quan hệ này là gì?
Ở góc xã hội, nhiều người vẫn gọi đây là “ống thử” hay “về chung một nhà”. Hai người yêu nhau, sống cùng, cùng ăn – cùng ở – cùng chi tiêu, đôi khi còn sinh con, lo toàn như một gia đình thực thụ. Nhưng về mặt pháp luật, cách gọi và nhìn nhận hoàn toàn khác.
Nếu hai người không đăng ký hôn nhân theo quy định của pháp luật thì dù có sống với nhau bao nhiêu năm, tổ chức cưới hỏi linh đình hay được gia đình hai bên công nhận, mối quan hệ đó vẫn không thể được coi là vợ chồng hợp pháp. Theo khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định rõ:
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Nói một cách dễ hiểu, nếu hai người không đăng ký kết hôn thì luật pháp sẽ xem đó là một mối quan hệ thông thường, chứ không phải quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vì không được công nhận là vợ chồng nên cũng không thể áp dụng những quy định dành riêng cho vợ chồng, ví dụ như chia tài sản chung, quyền và nghĩa vụ chăm sóc, cấp dưỡng, vv
Một trong những quyền lớn nhất được “mất” trong trường hợp này chính là quyền được chia tài sản chung theo nguyên tắc tài sản vợ chồng. Vì đơn giản, pháp luật không coi hai người là vợ chồng nên cũng sẽ không có cái gọi là “tài sản chung của vợ chồng” để tặng ra phân khi chia tay. Tuy nhiên, không vì thế mà người còn lại hoàn toàn không có quyền gì. Dù không phải là “vợ chồng hợp pháp”, nhưng nếu hai bên cùng tạo lập tài sản trong quá trình sống chung, cùng bỏ tiền, bỏ công sức, thì vẫn có thể yêu cầu chia theo phần đóng góp – theo quy định của Bộ Luật Dân sự, chứ không phải Luật Hôn nhân và Gia đình.
2. Vậy theo quy định pháp luật, trường hợp này có được chia tài sản không?
Nhiều người khi sống chung mà không đăng ký kết hôn thường chủ quan nghĩ rằng: “Ở với nhau, gây nguy hiểm cho nhau thì chia tay tất nhiên phải chia đôi.” Nhưng thực tế pháp L uật không chia theo cảm tính H ay công sức chung, M à phải có bằng chứng rõ ràng về phần đóng góp của từng N gười. Dù không được công nhận là vợ chồng, nhưng theo khoản 1 Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, mọi tranh chấp về tài sản giữa hai người sống chung sẽ được giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự. Nói một cách dễ hiểu, đó là ai góp bao nhiêu thì có quyền đòi lại bao nhiêu. Không có sự trùng lặp mặc định.
Ví dụ thực tế:
- Hai người cùng góp tiền mua một căn hộ nhưng chỉ đứng tên một người. Nếu người đó còn lại bằng chứng đã chuyển tiền hoặc đóng góp sửa chữa, trả nợ thì có thể yêu cầu chia sẻ phần góp ý.
-
Nếu cả hai thủ đoạn mở quán cà phê, cùng vận hành – nhưng không có đồng kinh doanh chung. Người bỏ vốn cần có hóa đơn, chuyển tài khoản hoặc tin nhắn xác nhận thủ thuật mới có thể yêu cầu tài sản chia.
-
Ngược lại, nếu người kia đứng tên toàn bộ tài sản, bạn không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy mình đã cống hiến tiền hoặc công sức. Khả năng đòi tài sản gần bằng 0.
Vậy pháp luật sẽ căn cứ vào đâu để chia?
Khi xảy ra tranh chấp tài sản giữa hai người sống chung không đăng ký kết hôn, tòa án sẽ không tự động chia đôi, mà sẽ căn cứ vào phần đóng góp của mỗi người. Những căn cứ thường được xem xét bao gồm:
-
Tiền bạc vào: Bạn có chuyển tài khoản, giao tiền mặt, đưa vàng, góp vốn… thì cần có sao kê ngân hàng, biên nhận, tin nhắn, ghi âm có thể xác định được công việc bạn đã góp phần tạo ra tài sản đó.
-
Công sức đóng góp: Bạn là người trực tiếp làm việc để tạo ra tài sản – ví dụ như đứng bán hàng, sửa nhà, chăm sóc, lo sinh hoạt… Nếu chứng minh được mình là người tham gia vào quá trình hình thành hoặc duy trì tài sản, thì công sức cũng có thể được tính vào phần được chia.
-
Giấy tờ, tài liệu và người làm chứng: Những tài liệu như đồng ý viết tay, giấy vay tiền, hợp đồng mua chung, hoặc người thân, bạn bè có thể xác nhận bạn tham gia góp công, góp tiền đã – đều có thể bằng chứng có giá trị pháp lý.
Tóm lại, để được chia tài sản, bạn phải chứng minh mình đã góp phần tạo ra nó, dù là bằng tiền hay bằng công sức. Pháp luật sẽ không công nhận nếu bạn chỉ “có mặt” trong mối quan hệ mà không có bằng chứng gì cho sự đóng góp của mình.
Yêu cầu thì không cần giấy tờ. Nhưng nếu chia tay, luật pháp sẽ hỏi bạn: “Bạn có bằng chứng gì?” . Đừng để đến khi mọi chuyện đổ vỡ, mình là người duy nhất ra đi cùng hai bàn tay trắng, chỉ vì từng nghĩ: “Mình tin người ta là được rồi.”