Trong các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, việc xác định thời hiệu khởi kiện là yếu tố then chốt để bảo vệ quyền lợi của chủ thể. Tuy nhiên, không ít cá nhân và doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất quyền khởi kiện do quá thời hiệu, hoặc gặp lúng túng khi tính thời gian bắt đầu. Vậy thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ được pháp luật Việt Nam quy định như thế nào? Cách áp dụng ra sao và còn tồn tại những vướng mắc gì? Bài viết sau sẽ giúp bạn hiểu rõ và tránh rủi ro pháp lý trong quá trình thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

1. Khái quát về thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Thời hiệu theo quy định của BLDS 2015 tại khoản 1 Điều 149 và Điều 150 cụ thể:
Khoản 1 Điều 149: Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Điều 150. Các loại thời hiệu
1. Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự.
2. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ.
3. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.
Như vậy có thể hiệu thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ là khoảng thời gian do pháp luật quy định mà trong thời gian đó, chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc tranh chấp phát sinh từ hành vi xâm phạm hoặc tranh chấp quyền liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Nếu quá thời hạn này mà không có lý do chính đáng hoặc thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu, chủ thể có thể bị mất quyền khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Cách áp dụng thời hiệu khởi kiện trong thực tế tranh chấp SHTT
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ (SHTT), việc xác định thời hiệu khởi kiện là một bước quan trọng nhằm xác lập quyền được bảo vệ của chủ thể. Tuy nhiên, cách áp dụng thời hiệu không đồng nhất trong các loại tranh chấp SHTT, mà phụ thuộc vào bản chất của hành vi xâm phạm và loại quyền bị ảnh hưởng.
Căn cứ theo Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp dân sự nói chung (trong đó có tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ) là 03 năm kể từ thời điểm người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Tuy nhiên, trong thực tế, không phải tất cả các tranh chấp SHTT đều bị giới hạn bởi thời hiệu. Có thể phân loại các trường hợp áp dụng như sau
2.1. Tranh chấp về quyền sở hữu (ai là chủ thể quyền SHTT)
- Đây là loại tranh chấp nhằm xác định ai là người có quyền hợp pháp đối với sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu, bản quyền…
- Theo Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015, không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu, nếu pháp luật không quy định khác.
- Do đó, chủ thể có thể khởi kiện bất kỳ lúc nào khi phát hiện quyền của mình bị xâm phạm hoặc bị chiếm hữu trái phép.
2.2. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc hành vi xâm phạm quyền
- Đây là nhóm tranh chấp phát sinh từ hành vi như: sử dụng trái phép nhãn hiệu, phát tán bản sao tác phẩm không có sự cho phép, vi phạm hợp đồng chuyển giao quyền SHTT,…
- Các hành vi này thuộc nhóm giao dịch dân sự/xâm phạm quyền, nên bị chi phối bởi thời hiệu khởi kiện 3 năm.
- Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là ngày người bị xâm phạm biết hoặc phải biết hành vi đó xảy ra.
2.3. Hành vi xâm phạm liên tục – thời hiệu được tính lại mỗi lần vi phạm
- Một số hành vi xâm phạm có tính kéo dài hoặc lặp lại, chẳng hạn: sử dụng liên tục nhãn hiệu đã đăng ký của người khác, đăng lại tác phẩm có bản quyền trên nền tảng số, duy trì trạng thái vi phạm trong suốt một thời gian dài.
- Theo nguyên tắc của luật dân sự, mỗi lần hành vi được thực hiện là một lần vi phạm mới. Do đó, thời hiệu khởi kiện không cố định mà được thiết lập lại sau mỗi lần vi phạm.
3. Một số vướng mắc, bất cập trong áp dụng thời hiệu khởi kiện SHTT
Thứ nhất, thiếu hướng dẫn cụ thể từ cơ quan quản lý dẫn đến áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án.
Thứ hai, khó xác định thời điểm “biết hoặc phải biết” quyền bị xâm phạm – yếu tố mấu chốt làm thay đổi thời hiệu.
Thứ ba, nhiều vụ việc SHTT mang tính quốc tế (xâm phạm online xuyên biên giới), nhưng chưa có cơ chế xác định rõ mốc thời gian vi phạm bắt đầu.
Thứ tư, trong thực tế, Tòa án vẫn thụ lý và xét xử một số vụ việc quá thời hiệu, nếu bị đơn không phản đối thời hiệu (Điều 157 BLDS 2015).

4. Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng thời hiệu khởi kiện
- Bổ sung quy định riêng về thời hiệu trong Luật SHTT, quy định rõ các trường hợp ngoại lệ như xâm phạm liên tục, vi phạm trên môi trường mạng.
- Hướng dẫn cụ thể việc xác định “ngày biết hoặc phải biết” qua văn bản dưới luật hoặc án lệ hướng dẫn.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ phát hiện xâm phạm bản quyền, giúp chủ thể sớm nắm bắt quyền bị xâm phạm để bảo vệ quyền lợi.
- Khuyến khích đăng ký quyền SHTT và ghi nhận thời gian công bố tác phẩm để làm căn cứ tính thời hiệu.