090 349 28 66
·
mvlawfirm.vn@gmail.com
·
Mon - Fri 09:00-17:00
090 349 28 66
·
mvlawfirm.vn@gmail.com
·
Mon - Fri 09:00-17:00

Trong thực tế, không ít người rơi vào tình cảnh “có lý mà không kiện được” – chỉ vì một điều tưởng chừng rất nhỏ: để quá thời gian cho phép, hay còn gọi là hết thời hiệu khởi kiện. Đây là một quy định pháp luật quan trọng nhưng lại thường bị mọi người bỏ qua trong các vụ tranh chấp dân sự.

Vậy thời hiệu khởi kiện là gì và tại sao nó lại ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của bạn như vậy?

Hãy cùng MV Law tìm hiểu kỹ hơn về quy định này nhé!

Theo Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian mà pháp luật cho phép một người được quyền khởi kiện ra Tòa để yêu cầu giải quyết vụ án dân sự, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Nếu quá thời gian này, bạn có thể mất luôn quyền khởi kiện – tức là Tòa án sẽ không thụ lý và giải quyết nữa. Thời hiệu này được tính từ ngày bạn biết (hoặc phải biết) rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm, trừ một số trường hợp pháp luật có quy định riêng.

1, Áp dụng quy định về thời hiệu

Tại Điều 149 Bộ luật dân sự  và Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đều quy định Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.

Tại khoản 1 và Điểm a khoản 4 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các quy định của pháp luật liên quan đến giải quyết vụ án. Như vậy, các đương sự khi tham gia tố tụng là hoàn toàn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và đương sự phải được Tòa án giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ. Vì vậy, Thẩm phán phải giải thích cho đương sự biết quyền được yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu.

Ví dụ: Người mua (Nguyên đơn) và người bán (Bị đơn) ký hợp đồng mua bán chè. Người mua đã ứng tiền trước, nhưng sau đó hai bên thỏa thuận hủy việc mua bán do chất lượng hàng hóa không đảm bảo. Theo thỏa thuận ngày 20/8/2013, người bán phải hoàn trả lại tiền gốc và lãi. Ngày 15/12/2014, hai bên xác nhận người bán còn nợ 4 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến ngày 05/01/2017 người mua mới nộp đơn kiện ra trọng tài.

Theo luật, thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp thương mại là 2 năm. Về nguyên tắc, thời hiệu này đã hết. Nhưng sau khi bị kiện, người bán đã thừa nhận vẫn còn nợ khoản tiền gốc, chỉ xin xem xét miễn/giảm phần tiền lãi. Theo Điều 157 Bộ luật Dân sự 2015, việc thừa nhận nghĩa vụ này khiến thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại, tính từ ngày sau khi người bán thừa nhận nợ.

Vì vậy, Hội đồng Trọng tài xác định thời hiệu vẫn còn và ra phán quyết buộc người bán trả lại 4 tỷ đồng tiền ứng trước.

2, Không áp dụng thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:

– Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.

– Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

– Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.

– Trường hợp khác do luật quy định.

Ví dụ: Công ty A (Nguyên đơn) và Công ty B (Bị đơn) ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý trong đó có nội dung Nguyên đơn phải đặt cọc tiền và Bị đơn phải đảm bảo vụ kiện thành công. Kết quả không thành công. Hơn 02 năm sau, Nguyên đơn khởi kiện đòi hoàn trả tiền đặt cọc nhưng Bị đơn cho rằng thời hiệu là 02 năm đã hết nên Nguyên đơn mất quyền khởi kiện. Hội đồng Trọng tài nhận thấy Nguyên đơn đặt cọc (80% trị giá hợp đồng) có nghĩa là quyền sở hữu số tiền này vẫn thuộc Nguyên đơn.

Bị đơn nhận số tiền đó không có nghĩa là quyền sở hữu đã thuộc về họ. Điều 155 Bộ luật dân sự 2015 quy định rằng thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, mà “Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu” trong đó có yêu cầu về đòi tài sản. Đòi tài sản là một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật dân sự 2015 như sau: “… Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Do đó, Hội đồng Trọng tài quyết định không áp dụng thời hiệu trong trường hợp này hay nói cách khác là việc giải quyết vụ tranh chấp này không bị ảnh hưởng bởi thời hiệu  năm theo Điều 33 Luật Trọng tài Thương mại 2010  như sau: “Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”.

3, Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Tại Điều 156 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định như sau: Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

– Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;

– Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:

+ Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;

+ Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.

Ví dụ: Một công ty vận tải ký hợp đồng bảo hiểm tàu biển với công ty bảo hiểm. Khi xảy ra tai nạn (ngày 03/01/2017), bên vận tải đã gửi văn bản thông báo cho bên bảo hiểm và được xác nhận. Sau đó, bên bảo hiểm nhiều lần yêu cầu bổ sung hồ sơ, chờ kết quả giám định tổn thất, mà không có bất kỳ văn bản nào từ chối trách nhiệm bảo hiểm cho đến ngày 13/02/2020.

Lúc này, công ty vận tải mới tiến hành khởi kiện. Dù vụ việc đã kéo dài hơn 3 năm – thời hiệu thông thường để khởi kiện – nhưng Hội đồng Trọng tài xác định thời gian chờ kết quả giám định và hồi đáp của bên bảo hiểm là “trở ngại khách quan” (theo Điều 156 Bộ luật dân sự 2015). Do đó, khoảng thời gian này không tính vào thời hiệu, và nguyên đơn vẫn còn thời gian khởi kiện hợp lệ.

4, Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Điều 157 Bộ luật dân sự 2015 quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:

– Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

– Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

– Các bên đã tự hòa giải với nhau.

Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện theo các trường hợp nêu trên.

Ví dụ: Trong một vụ tranh chấp hợp đồng dịch vụ, bên cung cấp dịch vụ thừa nhận còn thiếu sót trong việc thực hiện hợp đồng và đồng ý bồi thường một phần thiệt hại. Thời hiệu khởi kiện được tính lại từ ngày thừa nhận nghĩa vụ bồi thường, giúp bên yêu cầu có thêm thời gian để đàm phán và khởi kiện nếu cần.

Bình luận

Zalo Call
Zalo Call