Trong bối cảnh hiện đại, tri thức đã trở thành nguồn lực quan trọng, là động lực cung cấp sự thịnh vượng cho xã hội. Đối với doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh ngày càng phụ thuộc vào khả năng nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Trong đó, thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh đóng vai trò thiết yếu, vừa là tài sản quý giá, vừa là yếu tố thì chốt quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững. Tuy nhiên, nếu các bí mật này được tiết lộ về hành động cố ý hoặc vô ý từ bên ngoài, doanh nghiệp có thể chịu tổn thất nghiêm trọng. Do đó, việc xây dựng cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp, góp phần tạo môi trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh. Những năm gần đây, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO), luật pháp Việt Nam về sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ bí mật kinh doanh nói riêng đã từng bước được hoàn thiện.
1. Điều kiện để được bảo vệ
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một thông tin mong muốn được công nhận là bí mật kinh doanh thì thông tin đó phải đáp ứng ba điều kiện quy định tại Điều 87 – Luật Sở hữu trí tuệ. Ba điều kiện này có thể được hiểu cụ thể như sau:
Thứ tư, thông tin là bí mật kinh doanh phải không được hiểu thông tin một cách thường xuyên và dễ dàng có được
Xuất phát từ mục đích cơ bản và chung nhất của công việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh gắn kết với lợi ích thương mại của chủ doanh nghiệp khi họ giữ những thông tin bí mật nhất định, tạo lợi thế riêng cho họ trong quá trình kinh doanh trong cạnh tranh mạnh mẽ với các chủ thể khác sẽ điều kiện trước nhất để thành công đầu tư dưới dạng thông tin được coi là bí mật kinh doanh phải không được biết thông thường.
Thứ hai, khi được sử dụng tạo ra lợi ích cho người sử dụng
Thông tin được bảo vệ dưới định nghĩa là bí mật kinh doanh thì thông tin đó phải có khả năng sử dụng trong doanh nghiệp, tạo ra cho người nắm giữ thông tin tốt hơn để người không có lợi ích hoặc không sử dụng thông tin đó. Điều này xuất phát từ đặc điểm của bí mật kinh doanh là thông tin thương mại được tạo ra trên cơ sở có sự xác định đầu tư nhất của chủ sở hữu với mong muốn nắm giữ và sử dụng chúng sẽ mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế nhất định cho họ, giúp họ dễ dàng hơn trong quá trình cạnh tranh với các chủ thể khác.
Thứ ba, được chủ sở hữu bảo vệ bằng các biện pháp cần thiết.
Trên cơ sở chủ sở hữu đã nắm giữ và sử dụng thông tin bí mật đáp ứng yêu cầu không phải là hiểu biết thông thường, có khả năng sử dụng trong kinh doanh, tạo lợi ích riêng cho họ trong quá trình cạnh tranh với các chủ thể khác. Pháp luật Việt Nam còn quy định điều kiện thứ ba để xác định thông tin đó phải là bí mật kinh doanh hay không. Đó là chủ sở hữu thông tin đã áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo mật thông tin của mình như thế nào.
2. Các đối tượng không được bảo mật với định nghĩa bí mật kinh doanh
Theo quy định tại Điều 85 Luật Sở hữu trí tuệ, các thông tin không được bảo mật với danh nghĩa là bí mật kinh doanh bao gồm:
- Bí mật về nhân thân
- Bí mật về quản lý nhà nước
- Bí mật về phòng an ninh quốc gia
- Thông tin bí mật khác không liên quan đến hoạt động kinh doanh
3. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
3.1 Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được quy định cụ thể tại Điều 18 Nghị định 54/2000/ND-CP và tại Cướp 1 Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ. Dựa trên quy định này, có thể xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được chia thành 3 nhóm hành vi chính, bao gồm: nhóm hành vi tiếp cận, thu thập bí mật kinh doanh bất hợp pháp; nhóm hành động nhắm tiết lộ bí mật kinh doanh bất hợp pháp; nhóm hành động sử dụng bất hợp pháp bí mật kinh doanh.
Cụ thể, bao gồm Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các hành vi xâm phạm đối với bí mật kinh doanh bảo mật:
- Tiếp cận, thu thập thông tin phụ thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
- Cụ thể, việc sử dụng thông tin phụ thuộc bí mật kinh doanh mà chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó không được phép;
- Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui tạo, mua công, ép buộc, dụ dụ, lợi ích của người có nhiệm vụ bảo mật nhắm tiếp, thu thập hoặc làm sáng tỏ bí mật kinh doanh;
- Tiếp cận, thu thập thông tin phụ thuộc bí mật kinh doanh của người ủy thác theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có quyền xác thực;
- Sử dụng, thông báo bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa là phải biết bí mật kinh doanh do người khác có thể liên quan đến một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b, c và d tài khoản này;
Ngoài ra, theo Kiếm 2 Điều 128 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh còn bao gồm cả hành vi cấp giấy phép trái quy định của cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, trong thời hạn kể từ khi dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp phép được bỏ qua cho cơ quan có thẩm quyền đến hết 5 năm kể từ ngày người được cấp đơn được phép, cơ sở cấp phép không được cấp phép cho người bỏ đơn hơn nếu không được đồng ý của người dùng dữ liệu đó, trừ khi trường hợp thông tin đó được tạo ra một cách độc lập. Trong trường hợp cơ sở cấp phép có quyền xác thực vẫn được thực hiện cấp phép thì hành động đó sẽ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh.
3.2 Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Thứ tư, bảo vệ an toàn nhất
Tự bảo vệ bí mật kinh doanh được hiểu là chủ sở hữu bí mật kinh doanh áp dụng mọi biện pháp, cách thức mà luật pháp cho phép để bảo vệ bí mật kinh doanh tránh khỏi mọi nguy hại của chủ thể khác hoặc để hạn chế giải quyết thiệt hại cho các hành vi vi phạm bí mật kinh doanh gây nguy hiểm. Biện pháp bảo vệ được ghi nhận tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ.
Biện pháp tự động bảo vệ được thực hiện ở hành vi các chủ sở hữu thể thực hiện các thủ tục cần thiết để bảo vệ các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ như xác lập quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời áp dụng các biện pháp phá vỡ các hành vi vi xâm phạm bao gồm cả biện pháp công nghệ ngăn chặn các hành vi xâm phạm như sử dụng mã hóa mật khẩu để bảo vệ chương trình máy tính.
Thứ hai, pháp dân sự
Khi bị xâm chiếm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chủ nhân có thể xâm phạm phạm tội đơn yêu cầu xử lý vi phạm lên Tòa nhà có thẩm quyền để yêu cầu xử lý vi phạm. Người có quyền khởi động, yêu cầu xử lý vi phạm về bí mật kinh doanh là chủ sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp bí mật, người được thiết kế hoặc chuyển giao quyền sở hữu đối với bí mật kinh doanh hoặc người được chuyển quyền sử dụng hợp đồng sử dụng bí mật kinh doanh bị xâm phạm
Toà án có thẩm quyền giải quyết hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh được xác định theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Quy luật tố tụng dân sự 2015 có thẩm quyền giải quyết hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh được xác định theo quy định tại Điều 26, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, tương ứng với việc thẩm định quyền theo loại, cấp tính và lãnh thổ. Giải theo tính chất nhiệm vụ, Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc cấp tỉnh nơi được đơn cư trú, việc làm hoặc có cơ sở sẽ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Thứ ba, giải pháp
Đối với cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm phạm nghiệp quan quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Mặc dù pháp luật sở hữu trí tuệ không quy định cụ tội phạm liên quan đến hành vi xâm phạm này, nhưng các hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 288 (Tội đưa ra hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, Mạng viễn thông) hoặc Điều 226 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tùy tính, cường độ và hậu quả của hành động vi phạm. Đây là cơ chế bảo vệ nghiêm trọng nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh một cách tổ chức, gây hậu quả nghiêm trọng cho chủ sở hữu
Thứ tư, biện pháp hành động chính
Biện pháp hành động chính được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để xử lý những hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh khi mà việc xử lý lí hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bằng biện pháp dân sự vẫn chưa tương xứng với chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi.
Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, những hành vi sau có thể được xử lý bằng biện pháp hành chính bảo:
- Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp.
- Bộ thông tin hoặc sử dụng bí mật kinh doanh không được phép của chủ sở hữu.
- Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui tạo, mua công, ép buộc người có nhiệm vụ bảo mật để thu thập hay làm lộ bí mật.
- Tiếp cận thông tin trong hồ sơ xin cấp phép kinh doanh/lưu trữ sản phẩm bằng cách vượt qua biện pháp bảo mật của cơ quan có quyền đã được xác minh.
- Không thực hiện thử nghiệm dữ liệu bảo mật theo Điều 128 Luật SHTT.